ĐẠI NGU NGHĨA LÀ GÌ - VÌ SAO HỒ QUÝ LY CHỌN TÊN NƯỚC LÀ ĐẠI NGU
Trước hết đây không phải là một từ lóng hay thuật ngữ dùng để chỉ trích la mắng một cá nhân nào. Và tôi đoán rất nhiều người sẽ không biết hai chữ “ Đại Ngu ” là gì đâu . Trừ những người yêu thích và có sự am hiểu nhất định về lịch sử.
Bạn đang xem: Đại ngu nghĩa là gì
Đến đây hẳn các bạn đã hiểu bài viết hôm nay sẽ đề cập đến lĩnh vực nào rồi phải không ? Vậy hãy để goctomo.com giải thích “ Đại Ngu ” là gì nhé.
Chữ “ Ngu ” trong “ Đại Ngu ” không phải là ngu ngốc gì đâu. Ngược lại, người nghĩ ra cái tên này rất thông minh và tài giỏi. “ Ngu ” ở đây có nghĩa là “ Yên vui, hòa bình ”. “ Đại Ngu ” được hiểu là “ Ước vọng về một cõi giang sơn bình yên rộng lớn ”. Tác giả của hai chữ trên không ai khác đó chính là Hồ Quý Ly.
Có thể mọi người đã biết Hồ Quý Ly là ai. Hồ Quý Ly chính là người sáng lập nhà Hồ - Một triều đại với thời gian tồn tại ngắn nhất thời phong kiến . Triều đại này chỉ tồn tại từ năm 1400-1407. Đại Ngu chính là quốc hiệu của Việt Nam vào thời đó.
Nếu không biết tiếng Hán, đọc sơ qua : “ Đại Ngu ” - hẳn sẽ có nhiều người bật cười vì cái tên khá là thô thiển. Vậy lí do gì mà Hồ Quý Ly chọn quốc hiệu là "Đại Ngu"? Điều này được một vài nhà sử học phán đoán rằng ông tin bản thân mình là con cháu của dòng dõi Nghiêu Thuấn ( một trong năm vị vua nổi tiếng của Trung Quốc thời cổ đại ).
Có nhiều người thời điểm đó và kể cả sau này đều cười nhạo Hồ Quý Ly vì nghĩ ông bị hoang tưởng về nguồn gốc của mình. Các tác giả Đại Việt Sử ký Toàn thư đã chê bai ông rằng : “Không phải mả nhà mình mà cúng là siểm nịnh… họ hàng xa xôi, các đời biến đổi, khó mà tin được. Quý Ly lại nhận là dòng dõi xa của Hồ Công Mãn, tế Nghiêu Thuấn làm thủy tổ, thì cái tội dối đời để tiếm ngôi thực không gì to bằng ”.
Những lời lẽ cay nghiệt như thế chỉ là một trong số rất nhiều những phê phán, chỉ trích căm giận của đa số mọi người nhằm vào Hồ Quý Ly. Với tôi, điều này thật sự rất đáng tiếc. Thông minh tài giỏi nhưng lại không được lòng người.
Vậy lí do vì sao mà Hồ Quý Ly lại mang tiếng xấu như vậy thì xin được lật lại lịch sử ở phần dưới đây.
Vài Nét Về Hồ Quý Ly Và Triều Đại Nhà Hồ
Hồ Quý Ly tên thật là Lê Quý Ly – tự là Lý Nguyên. Ông sinh năm 1336, quê ở Thanh Hóa, là hậu duệ đời thứ 16 của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật ( người Chiết Giang, Trung Quốc sang định cư nước ta từ thời Hậu Hán ( 947 – 950 ). Lý do mà ông mang họ Lê là vì trước đó vào thời nhà Lý – hậu duệ thứ 12 Hồ Liêm được nhận làm con nuôi của Tuyên Úy Lê Huấn nên đổi sang họ Lê. Quý Ly là cháu 4 đời của Hồ Liêm nên mới có tên là Lê Quý Ly. Sau khi lên làm vua mới chính thức đổi lại họ Hồ.
Việc tại sao phải đổi họ tôi đã nói trong bài: Việt Nam có bao nhiêu họ. Các bạn có thể tham khảo thêm bài viết này.
Gia đình nhà Quý Ly cũng thuộc hàng địa vị tôn quý trong xã hội. Mẹ Hồ Quý Ly là con gái của quan Thái y thời Trần Anh Tông ( 1293 – 1314 ). Hai người cô của ông là đều là phi tần của vua Trần Minh Tông ( 1314 – 1329 ). Cả hai bà đều sinh ra hoàng tử mà sau này chính là vua Trần Nghệ Tông ( 1370 – 1372 ) và Trần Duệ Tông ( 1372 – 1377 ) , và hai bà được phong là Thái hậu và Thái Phi. Bản thân Hồ Quý Ly cũng lấy Huy Ninh công chúa ( con gái của vua Trần Minh Tông ). Con gái đầu của ông sau này cũng lấy vua Trần Thuận Tông ( 1388 – 1398 ) và sinh ra vua Trần Thiếu Đế - vị vua cuối cùng của nhà Trần và chính là cháu ngoại Hồ Qúy Ly.
Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi Hồ Quý Ly rất được vua Trần tín nhiệm. Ngay từ thời vua Trần Nghệ Tông ông đã nắm quyền lực lớn mạnh trong tay. Cho đến khi con rể ông là vua Trần Thuận Tông phong ông làm Thái Sư Nhiếp chính phụ trách các vấn đề quan trọng trong nước, kể cả quân đội thì sự bành trướng của Hồ Quý Ly ngày càng lộ rõ.
Năm 1396, Hồ Quý Ly bức ép vua Trần dời đô từ Thăng Long vào thành Tây Đô ( Thanh Hóa ). Điều này đã khiến các quần thần trung thành với nhà Trần cực kì phẫn nộ. Họ mưu tính lật đổ Hồ Quý Ly nhưng không thành. Kể từ lúc Hồ Quý Ly nắm trong tay quyền bính, ông đã giết tổng cộng hơn 370 người chống đối lại ông. Trong đó có tướng Trần Khát Chân - vị tướng có công đánh tan quân Chiêm Thành xâm lấn bờ cõi phía Nam của Đại Việt.
Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi cả cháu ngoại của mình là Trần Thiếu Đế, lập ra nhà Hồ - đổi quốc hiệu là Đại Ngu. Nhưng rõ ràng số phận không ưu ái cho Hồ Quý Ly và nhà Hồ mà ông đã bỏ bao tâm huyết gây dựng. Từ cái quá trình lên ngôi gây ra biết bao sóng gió cho đến khi nhà Minh xâm lược nước ta chỉ vỏn vẹn có 7 năm. Nhưng trong 7 năm đó, Hồ Quý Ly không hề là một vị vua xấu xa, bất tài bạo ngược. Ngược lại, ông đã thay đổi gần như là ngoạn mục về mọi mặt của đất nước lúc bấy giờ. Cụ thể :
Trong kinh tế, Hồ Quý Ly cho cải tổ lại phương thức canh tác sản xuất nông nghiệp, đầu tư cho các công trình thủy lợi, đê điều, đào sông, đắp đường…Đo đạc lại ruộng đất, điều tra dân số… để nắm rõ sức lao động và tài sản trong cả nước, từ đó có kế hoạch điều chỉnh phân bố lao động cho phù hợp để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Ông còn cho đặt tên các đường, phố xá, đặt các trạm công văn để chuyển phát thông tin thư từ nhanh nhất có thể.
Xem thêm: Hướng Dẫn Cách Làm Phiếu Lương Bằng Mail Merge Tạo Phiếu Lương Từ
Nhưng có lẽ phải kể đến một thành tích nổi bật của nhà Hồ chính là phát hành tiền giấy – một sự thay đổi đáng ngạc nhiên trong việc cải tổ tài chính – kinh tế của Việt Nam lúc bấy giờ.
Về bộ máy cai trị, ông giảm bớt sa thải các tăng lữ tôn giáo, mà khuyến khích tuyển các vị quan lại bên ngoài để thêm nhiều người cùng nhau góp sức cho lợi ích chung.
Về xã hội, Hồ Quý Ly quy định dùng chữ Nôm là chữ của nước nhà thay thế cho chữ Hán, cải cách giáo dục thay đổi chế độ thi cử để chiêu mộ nhiều nhân tài hơn.
Về quốc phòng, công lao lớn không thể thiếu sót của ông chính là phát minh ra súng thần cơ, lập xưởng đúc binh khí, công cụ kỹ thuật phục vụ cho quân đội có quy mô lớn, sửa sang lại thành lũy và tăng cường lực lượng bảo vệ trấn giữ biên giới nhằm ngăn chặn sự xâm lược từ ngoại bang.
Nhưng rất đáng tiếc, Hồ Quý Ly nếu như khôn khéo hơn trong việc thu phục lòng người thì có lẽ nhà Hồ đã không chấm dứt nhanh chóng như thế. Năm 1407, triều Minh đem quân sang xâm lược nước ta. Quân nhà Hồ không thể chống đỡ được vì nhân dân không hề có ý đồng lòng cùng Hồ Quý Ly cản bước giặc ngoại xâm. Hai cha con Hồ Quý Ly bỏ chạy nhưng lại bị giặc Minh bắt được đem về Trung Quốc. Quốc hiệu Đại Ngu cũng đã chấm dứt luôn từ đấy.
Thật ra, nói một cách công bằng thì nhà Trần đã suy thoái vào thời kì cuối. Các vị vua cứ thay nhau ngồi lên ngai vàng liên tục trong thời gian ngắn là đủ hiểu rồi. Những cải cách của Hồ Quý Ly được xem là thay đổi thần kì, là bước tiến mới cho sự phát triển của Việt Nam vào thời kỳ trung đại. Tuy còn hạn chế nhưng sự cố gắng và tâm huyết của ông không thể phủ nhận. Thậm chí qua những việc làm của ông, Hồ Quý Ly được đánh giá là một người tiến bộ có tư tưởng đi trước thời đại. Nếu như có thể so sánh tôi nghĩ Hồ Quý Ly không khác gì Nhật hoàng thời kì Minh Trị nổi tiếng.
Nhưng chỉ tiếc là thời gian của Hồ Quý Ly quá ngắn ngủi. Và ông lại phạm phải sai lầm lớn trong việc thu phục trấn an lòng người, để lại ấn tượng tiêu cực xấu xa cho người đời đánh giá, kể cả các nhà sử học sau này.
Nhìn lại nhà Trần. Nhà Trần cũng là chiếm ngôi của triều trước khi đất nước đã mục tàn, cũng là tiêu trừ hậu duệ đời cũ không để cho mầm mống sau này kháng cự, nhưng Trần Thủ Độ lại có cách làm hay hơn nhiều. Đưa nhà Trần thế ngôi rất dễ dàng thông qua cuộc hôn phối của hoàng tộc, vừa thu phục được quần thần, dân chúng, vừa không phải tốn nhiều xương máu để gây lòng oán hận.
Do đó, đến tận khi nhà Trần đã tận, dân chúng vẫn còn trung thành nên mới căm ghét Hồ Quý Ly như vậy.
Tôi rất ưa thích tư tưởng của Tào Tháo. Việc một triều đại hưng thịnh rồi suy tàn là điều tất yếu của thời gian. Nếu nhà Ngụy không thay thế cho nhà Hán thì còn đó nước Thục, nước Ngô sẽ thay thế. Đó là điều tất yếu. Cái mới rồi sẽ thay thế cái cũ, sinh rồi tử, cái cây chết đi sẽ để lại mầm sống cho thế hệ tiếp theo. Thật đáng tiếc cho Hồ Quý Ly khi bị người đời phê phán.
Giới thiệu Hoạt động chuyên môn, nghiệp vụCông tác trưng bày
Tin tức Trưng bày Trưng bày chuyên đề
Nghiên cứu Khảo cổ họcẤn phẩm
Dự án BTLSQG Thông tin hữu ích Hỗ trợ
Vào cuối thế kỷ XIV, đất nước ta đang trong tình trạng rối ren, Nhà Trần đang trên bờ vực suy tàn. Trong hoàn cảnh đó, Hồ Quý Ly (1336- 1407) – một quý tộc có thanh thế, một vị đại thần trong triều đình đã lấn át quyền lực của nhà vua, tự lập nên vương triều nhà Hồ năm 1400, đồng thời đổi quốc hiệu nước thành Đại Ngu…
Hồ Quý Ly sinh năm 1336, tên là Lê Quý Ly, tự là Lý Nguyên, quê ở Đại Lại, Vĩnh Lộc (nay là xã Hà Đông, huyện Hà Trung, Thanh Hóa). Trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép: Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn người Triết Giang bên Trung Quốc, vào thời Hậu Hán (947- 950), được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (Diễn Châu- Nghệ An). Vào thời loạn 12 sứ quân, họ Hồ trở thành một trại chủ. Vào thời Lý, dòng họ có người lấy được công chúa; đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm (được làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn) đổi tên Lê Liêm theo họ Lê. Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Lê Liêm. Mẹ của Hồ Quý Ly là con gái của Phạm Bân {quan Thái y dưới triều vua Trần Anh Tông (1293- 1314)}, hai người cô trong họ lấy vua Trần Minh Tông (1314- 1329), một bà sinh ra vua Trần Nghệ Tông ( 1370-1372) được phong là Minh Từ Thái hậu, một bà sinh ra vua Trần Duệ Tông (1372- 1377) được phong làm Đôn Từ Thái phi. Bản thân Hồ Quý Ly lấy con gái vua Trần Minh Tông là công chua Huy Ninh. Sau này, con gái đầu của Hồ Quý Ly là Khâm Thánh lại lấy vua Trần Thuận Tông (1388-1389) sinh ra Trần Án (tức Trần Thiếu Đế). Năm Kỷ Dậu (1369), vua Trần Dụ Tông mất, vua Trần Nghệ Tông nhu nhược, Hồ Quý Ly được nắm trong tay nhiều quyền hành, được phong làm Khu mật Đại sứ.
Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), sau khi diệt vua Chiêm, Hồ Quý Ly càng thao túng quyền lực trong triều. Con rể Trần Thuận Tông phong ông chức Nhập nội phụ chính Thái sư, được đeo lân phủ vàng, nắm các vị trí then chốt trong triều đình và quân đội. Năm 1396, Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy, đồng thời dùng thế lực bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô. Điều này làm các quần thần trung thành với nhà Trần mưu tính làm chính biến lật đổ họ Hồ, nhưng Hồ Quý Ly đã ra tay tiêu diệt nhanh chóng. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly truất ngôi cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự lập làm vua, đổi niên hiệu là Thánh Nguyên, chính thức đổi tên sang họ Hồ, lập nên nhà Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu.

Hoàng đế Hồ Quí Ly (1336-1407).
Quốc hiệu “Đại Ngu” bắt nguồn từ truyền thuyết cho rằng họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn- một vị vua của Trung Hoa cổ đại, nổi tiếng vì đã đem lại sự bình yên và thịnh vượng cho dân chúng. Chữ “Ngu”có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình”. “Đại Ngu thể hiện ước vọng của nhà Hồ về một giang sơn bình yên và rộng lớn. Trong lịch sử đã ghi nhận những đóng góp to lớn của nhà Hồ nhằm thực hiện mong muốn này. Ngay từ cuối thời Trần, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách sâu sắc, nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng của xã hội. Sau khi ông lên ngôi, đã đẩy mạnh các cuộc cải cách này và đem lại nhiều đổi thay cho đất nước về các mặt kinh tế, văn hóa và xã hội. Dưới quốc hiệu Đại Ngu, người Việt cũng được chứng kiến những thành tựu về khoa học- kỹ thuật: phát minh súng thân cơ, thuyền chiến hai tầng, hệ thống thủy lợi quy củ, công trình kiến trúc hoành tráng… Tuy nhiên, sự bình yên thịnh vượng mà quốc hiệu Đại Ngu hướng tới chỉ tồn tại trong 7 năm ngắn ngủi. Trước cuộc xâm lược của nhà Minh, nhà Hồ đã bị sụp đổ vào 4- 1407, đồng thời, chấm dứt sự tồn tại của quốc hiệu Đại Ngu.

Thành nhà Hồ tại Thanh Hóa.
Dưới triều đại nhà Hồ, quốc hiệu Đại Ngu đã thực hiện được một phần ý nghĩa của nó. Trên phương diện kinh tế- xã hội, đất nước đã có được sự bình yên, phồn thịnh và các bước phát triển. Tuy nhiên, do hành động lật vua, tự phong vương, Hồ Quý Ly đã gặp phải sự thất bại trong việc gây dựng lòng tin trong nhân dân, điều đó đã dẫn đến sự đổ vỡ của triều đại này. Ngày nay, sự tồn tại của thành nhà Hồ đã trở thành di sản quý giá của nước ta ngày nay. Công trình kiến trúc độc đáo này đã thể hiện sự phát triển mới trong phong cách kiến trúc và kỹ thuật xây dựng, chứng minh được quyết tâm của nhà Hồ trong công cuộc xây dựng nước Đại Ngu. Ngày nay, những cải cách của Hồ Quý Ly và các thành tự thời nhà Hồ đã được nhìn nhận đúng đắn và lịch sử ghi nhận./